Chính phủ quyết tâm chắc chắn khả năng trả nợ trong trung hạn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, cắt giảm một vài thiệt hại có thể xảy ra…
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ quản lý nợ công, trong đây, quy định về quản lý rủi ro đối có nợ công nhằm mục tiêu quản lý rủi ro nhằm chắc chắn cơ cấu nợ công hợp lý, thích hợp có mục tiêu, định hướng đặt ra trong kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm đã được Quốc hội chọn lọc.
Theo đây, cộng có mục tiêu trên, có nghị định này, Chính phủ quyết tâm chắc chắn khả năng trả nợ trong trung hạn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công; cắt giảm một vài thiệt hại có thể xảy ra trong tình huống xấu nhất có kinh phí phát sinh hợp lý.
Làm phát sinh rủi ro nợ công phải bồi thường
Về tiêu chuẩn xử lý rủi ro, việc tham khảo xử lý rủi ro được thực hiện cho từng trường hợp cụ thể căn cứ vào mức độ tổn thất có thể xảy ra và lý do dẫn đến rủi ro; việc phòng ngừa và xử lý rủi ro phải căn cứ vào thoả thuận vay hoặc công cụ nợ gốc trong danh mục nợ công hiện hành, lý do phát sinh rủi ro, thích hợp có quy định pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Việc phòng ngừa rủi ro đối có danh mục nợ công phải thực hiện thích hợp có kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm và kế hoạch vay, trả nợ hằng năm; tổ chức, cá nhân sử dụng vốn vay sai mục đích, cố ý làm trái quy định làm phát sinh rủi ro nợ công phải chịu trách nhiệm xử lý và bồi thường theo quy định của pháp luật.
Rủi ro đối có nợ công bao gồm: Rủi ro về lãi suất, tỷ giá ngoại tệ do biến động trên phân khúc tài chính; rủi ro thanh khoản do thiếu một vài tài sản tài chính có tính thanh khoản để thực hiện đầy đủ, kịp thời một vài nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam đoan, bao gồm khả năng trả nợ của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; rủi ro do biến động phân khúc tài chính ảnh hưởng đến việc huy động vốn dẫn đến phải đảo nợ có kinh phí cao hoặc mất khả năng đảo nợ; rủi ro tín dụng do đối tượng được vay lại, đối tượng được bảo lãnh không trả được nợ đầy đủ, đúng hạn; một vài loại rủi ro khác có thể ảnh hưởng đến an toàn nợ công.
Việc quản lý rủi ro tín dụng của đối tượng được vay lại, đối tượng được bảo lãnh Chính phủ thực hiện theo quy định ở nghị định của Chính phủ về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ; Nghị định của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ.
Bộ Tài chính phân tách rủi ro nợ công
Nghị định nêu rõ nội dung chủ yếu của việc phân tách rủi ro gồm: Phân tích tình hình kinh tế vĩ mô, tài khóa, tiền tệ, tỷ giá, lãi suất và biến động của phân khúc vốn trong nước và quốc tế có tác động đến nợ công; đánh giá, phân tách diễn biến về cơ cấu đồng tiền, lãi suất, kỳ hạn, diện tích, nghĩa vụ trả nợ công, giai đoạn này và xu hướng tương lai nhằm nhận diện mức độ rủi ro để có biện pháp xử lý rủi ro thích hợp; tính toán mức độ rủi ro, chuẩn bị kinh phí phòng ngừa và xử lý rủi ro trong trường hợp rủi ro xảy ra.
Bộ Tài chính có trách nhiệm phân tách rủi ro đối có nợ công, bao gồm nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương và nợ được Chính phủ bảo lãnh; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân tách rủi ro đối có nợ của chính quyền địa phương, bao gồm vay lại vốn vay ODA và vay ưu đãi của Chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương và một vài khoản nợ khác của chính quyền địa phương.
Việc phân tách rủi ro được thực hiện định kỳ gắn có kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm và kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm. Trên cơ sở phân tách rủi ro, Bộ Tài chính đề xuất một vài biện pháp để phòng ngừa rủi ro đối có nợ công; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề xuất một vài biện pháp để phòng ngừa rủi ro đối có nợ của chính quyền địa phương.
Nghị định cũng quy định một vài biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Cụ thể, đối có phòng ngừa và xử lý rủi ro về lãi suất và tỷ giá ngoại, sử dụng một vài công cụ phái sinh về lãi suất và đồng tiền.
Đối có việc phòng ngừa và xử lý rủi ro thanh khoản gồm: bố trí nguồn trả nợ đầy đủ, đúng hạn theo quy định ở Điều 54 Luật Quản lý nợ công; phát hành công cụ nợ để chắc chắn thanh khoản; cơ cấu lại kỳ hạn của một vài khoản nợ, mua lại nợ, hoán đổi khoản nợ hoặc đàm phán gia hạn nợ.
Đối có phòng ngừa và xử lý rủi ro do biến động phân khúc tài chính gồm: phát triển phân khúc vốn trong nước; nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia để tiếp cận phân khúc vốn quốc tế.
Căn cứ vào phân tách rủi ro và mức độ ảnh hưởng của rủi ro đối có từng khoản nợ hoặc có danh mục nợ, Bộ Tài chính thi công đề án cơ cấu lại nợ, trình Thủ tướng Chính phủ chọn lọc và tổ chức thực hiện; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cộng cấp chọn lọc phương án cơ cấu lại nợ của chính quyền địa phương và tổ chức thực hiện.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước tính mật độ nợ công của Việt Nam so có GDP đến hết tháng 4/2018 là dao động 55,9%. Trong đây, nợ Chính phủ so có GDP dao động 47,5%; nợ được bảo lãnh Chính phủ so có GDP dao động 7,9%; nợ chính quyền địa phương so có GDP dao động 0,5%.
Về khoản tiền trả nợ vay của Chính phủ trong 4 tháng đầu năm, Bộ Tài chính cho biết đã trả 76.158 tỷ đồng. Trong đây, số tiền trả nợ vay trong nước 59.383,5 tỷ đồng, trả nợ vay nước ngoài 16.774,2 tỷ đồng.
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước chuyên đề về kiểm toán nợ công, chuẩn bị năm 2018, nhu cầu vay bù đắp bội chi ngân sách Trung ương là 195.000 tỷ đồng, vay mới để trả nợ gốc là 146.770 tỷ đồng và vay nước ngoài về cho vay lại dao động 40.000 tỷ đồng. Dư nợ công cuối năm 2018 chuẩn bị ở mức dao động 63,9% GDP, dư nợ Chính phủ ở mức dao động 52,5% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia dao động 47,6% GDP, nằm trong giới hạn cho phép (dưới 50%).
Bạn đang xem chuyên mục Tai Chinh ở QOV.VN