Ông Fukui Tomoaki, Giám đốc bộ phận bán hàng của AEON Topvalue Việt Nam đã có nhiều chia sẻ ở Hội thảo “Hỗ trợ Doanh nghiệp Việt Nam tham dự 1 số mạng phân phối nước ngoài” do Bộ công thương tổ chức, diễn ra mới đây ở TP.HCM.
Ngoài ra, 1 số sản phẩm để được tiêu thụ ở 1 số tập đoàn thương mại bán lẻ lớn như AEON phải là các sản phẩm có sức quyến rũ phân khúc hay nhà sản xuất phải chứng minh được giá trị tiêu dùng của sản phẩm.
Khi sản phẩm được chọn, chuyên gia từ 1 số tập đoàn bán lẻ này sẽ đi đến trực tiếp từng nhà máy của đơn vị cung ứng và kiểm tra năng lực thực ở. Nếu đạt 1 số đề nghị nghiệm ngặt về hệ thống, quy trình sản xuất kèm theo 1 số chứng nhận xuất xứ rõ ràng, hai bên mới chính thức bước vào vòng đàm phán giá cả.
Trường hợp Vinamilk cũng đã mất gần 2 năm để chào bán sản phẩm sữa đặc vào phân khúc Nhật Bản thông qua AEON, sớm nhận được phản hồi từ phía đơn vị bán lẻ này, Vinamilk mau chóng đầu tư thêm dây chuyền đâyng gói mới từ dạng lon thiếc sang dạng tuýp tiện dụng, hiện Vinamilk vẫn trong quá trình đàm phán và đơn vị này cho biết sẵn sàng gia công 1 số sản phẩm có thương hiệu nước ngoài.
Các thương hiệu khác từ Việt Nam như gốm sứ Minh Long hay 1 số công ty khởi nghiệp về nông sản, thực phẩm cũng chung tình cảnh, khi muốn xuất khẩu đều phải dựa trên các đề nghị từ phía đơn vị phân phối lớn.
Ảnh: Doanh nghiệp Việt Nam tham dự triễn lãm Quốc tế FHA Singapore 2018 do Bộ Công thương tài trợ, ngoài mục tiêu tìm kiếm 1 số đối tác phân phối nước ngoài, còn là thời cơ để tăng cường hợp tác giữa 1 số công ty Việt.
“Nhiều trường hợp, công ty đưa sản phẩm “đi reo chuông xứ người” nhưng hợp đồng sớm nhất đến từ các “đồng hương” có nhau, sau đây mới tới từ 1 số đối tác nước ngoài”, ông Nguyễn Hữu Trí – Giám đốc nhãn hàng Trivie chia sẻ.
Đối có nhiều công ty, để có được đơn hàng xuất khẩu Thứ nhất từ khi gặp gỡ, thời gian đàm phán và chờ đợi ít nhất 1 năm và có thể lên tới nhiều năm.
Từ đầu năm 2000, phân khúc phân phối ở Việt Nam bắt đầu được 1 số nhà đầu tư nước ngoài quan tâm mà mở đầu là 1 số nước châu Âu như Đức có Metro hay Pháp có tập đoàn Bourbon.
Cũng từ đây 1 số công ty xuất khẩu Việt Nam bắt đầu tiếp cận trực tiếp để bán hàng vào 1 số hệ thống phân phối của nước ngoài ở Việt Nam. Trước đây hàng Việt Nam tuy xuất khẩu đi khắp nơi trên địa cầu nhưng thường xuất khẩu qua trung gian hoặc 1 số nhà nhập khẩu chuyên nghiệp.
Thực tế cho thấy mật độ xuất khẩu trực tiếp cho 1 số mạng lưới phân phối trong 1 số ngành hàng chủ lực của Việt Nam như đồ gỗ, dệt may, da giầy, chiếm mật độ rất thấp cả về số công ty và giá trị kim ngạch.
Tình huống tương tự có diễn ra trong ngành hàng thực phẩm hay không? Khi 1 số công ty Việt Nam trong lĩnh vực này đang dần trở thành 1 số đơn vị gia công “chuyên nghiệp” cho 1 số thương hiệu lớn của quốc tế.
Câu chuyện của 1 công ty cà phê trẻ đã đầu tư dày công cho 1 số cánh đồng cà phê hữu cơ, lấy đầy đủ 1 số chứng nhận quốc tế về nguyên tắc sạch, an toàn nhưng vẫn rất nhọc nhằn khi muốn có thương hiệu cà phê do mình sản xuất vào 1 số hệ thống trung tâm mua sắm lớn, được chính công ty kể lại ở hội thảo.
Để từ chối thì câu trả lời từ 1 số đơn vị bán lẻ thường do hạn chế về quy mô kệ hàng hay đã có rất nhiều thương hiệu cộng lĩnh vực lên kệ trước đây từ Việt Nam. Các công ty trên vẫn nhận ra 1 số tập đoàn bán lẻ ưu tiên cho 1 số đơn vị đồng ý “gia công” hơn và lo ngại trước việc tiếp cận trực tiếp 1 số nhà sản xuất gốc để giảm chi phí sản phẩm từ 1 số “ông chủ lớn” này.
Ông Fukui Tomoaki khẳng định việc tôn trọng đối tác và đạo đức trong kinh doanh là 1 trong các tiêu chí danh tiếng từ 1 số công ty đến từ Nhật Bản, 1 số đơn vị thương mại trung gian được mời ngồi vào vòng đàm phán giữa nhà nhập khẩu và đơn vị sản xuất để xác định rõ công sức của 1 số bên và trao đổi biện pháp phân chia lợi nhuận xứng đáng trong trường hợp 1 số công ty thương mại không có cổ phần trong 1 số công ty sản xuất gốc.
Ông Paul Le, Phó Chủ tịch Hỗ trợ công ty vừa và nhỏ, Xúc tiến Thương mại Công ty Central Group Việt Nam (thứ 2 từ trái qua) giải đáp Doanh nghiệp chọn hướng đi thích hợp.
“Để tránh lãng phí nguồn lực, 1 số sản phẩm giai đoạn này cần mau chóng tạo ra lợi thế tranh đua cũng như sự khác biệt. Ví dụ, 1 số mặt hàng chế biến từ nông nghiệp như sấy dẻo, sấy khô, nước ép hiện đã xuất hiện rất nhiều trên kệ 1 số hệ thống bán lẻ và từ 1 số quốc gia khác nhau. Các khó là công ty cần tránh trùng lặp về sản phẩm, cần chịu khó tìm hiểu các sản phẩm nào là lợi thế riêng của Việt Nam mà 1 số nước chưa có, tiềm năng cung cấp được nhu cầu phân khúc, từ đây đẩy mạnh quảng bá và tìm kiếm 1 số kênh phân phối hiệu quả.”
Đó là lời khuyên chân thành từ Ông Paul Le trước hiện trạng 1 số sản phẩm Việt Nam đang đi theo mô típ “na ná nhau” nhưng vẫn mạnh ai nấy chạy trong cuộc đua khốc liệt vào 1 số kênh bán lẻ.
NGUYỄN VIỆT HÙNG
Theo Trí Thức Trẻ
Bạn đang xem chuyên mục thuong hieu la gi ở QOV.VN