Những tác động đối với Việt Nam đã được báo trước, phần nào thấy trước, còn lại là ứng xử…
Vào thời điểm này cách đây bốn năm, tin tức Việt Nam định hướng tham dự Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) – bank do Trung Quốc khởi xướng thành lập – là một sự kiện kinh tế được để ý.
Khi đó, có quan ngại bên lề, Việt Nam tham dự AIIB, nền kinh tế sẽ có thêm lệ thuộc nào đó vào Trung Quốc.
Nhưng, ở góc nhìn khác, là quốc gia có hoạt động vay vốn không ngừng nghỉ và lâu dài từ các định chế tài chính quốc tế, việc có thêm đầu mối, phong phú thêm nguồn tiếp cận (có thêm AIIB) được xem là có lợi cho Việt Nam.
Có lợi, từ bốn năm trước đã được tính toán: Việt Nam dần dần vượt qua các cấp độ xóa đói giảm nghèo, lương bình quân đầu người tăng lên, các nguồn vốn ưu đãi sẽ dần ít đi. Việc có thêm đầu mối tiếp cận vay vốn, có thêm thời cơ tìm kiếm nguồn có kinh phí thấp hơn.
Tương lai dự tính từ bốn năm trước đang dần trở thành ngày cũ giai đoạn này. Từ năm 2017, các bộ ngành tính năng đã chính thức đề cập, vốn vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam sẽ dần chuyển qua thương mại hơn, và đây là năm bản lề.
Ngày 26/9/2018, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) lần thứ ba trong năm tăng lãi suất. Họ tiên liệu sẽ có thêm một lần tăng nữa vào cuối năm nay, và ba lần trong năm 2019.
Cũng như bắt đầu tư cuối 2015, đến nay, các lần tăng lãi suất của FED đều được báo trước, tiên liệu trước về mức độ và thời điểm. Việc chính xác hóa mỗi chọn lọc như ngày cũ của mai sau vậy, đã được biết trước và thậm chí giới chuyên gia cho rằng thị trường đều chủ động hấp thụ và phản ánh.
Ngày cũ của mai sau tại Việt Nam thì sao, từ công đoạn FED tăng lãi suất?
Như trên, với nguồn vốn vay ưu đãi dần hạn chế đi và chuyển sang trọng thương mại, ngân khố quốc gia có thể chịu ảnh hưởng với kinh phí đi vay sẽ đội lên. 0,25 điểm căn bản mỗi lần FED tăng lãi suất có vẻ nhỏ, nhưng cộng dồn từ cuối 2015 rồi đến cả chuẩn bị ba lần tăng 2019 là đáng để ý.
Mới đây, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia công bố báo cáo về tình hình tài khóa và ngân sách Việt Nam, trong đó đánh giá chính xác tác động tốn kém hơn từ công đoạn tăng lãi suất của FED.
Báo cáo đó cũng lưu ý cả ở hoạt động vay vốn nước ngoài của các công ty. Đặc biệt, dư nợ vay nước ngoài ngắn hạn của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay tự trả đã tăng đột biến trong năm 2017…
Với thị trường nhìn chung, giới đầu tư chủ yếu nhưng vẫn nhìn vào diễn biến tỷ giá USD/VND và biến động trên thị trường chứng khoán. Đây cũng là hai điểm mà ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc khối nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ của HSBC Việt Nam, nhấn mạnh trong nhận định về tác động từ công đoạn FED tăng lãi suất.
Cụ thể, chuyên gia HSBC cho rằng, chính sách bán hàng tiền tệ dần thắt chặt của FED và đồng Nhân dân tệ yếu hơn sẽ tiếp tục là thách thức chính đối với VND trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, đồng VND mất giá quá nhanh sẽ mang lại nhiều bất lợi về tính ổn định cho nền kinh tế Việt Nam như hiệu ứng lan tỏa lên kỳ vọng lạm phát, vốn đã và đang tiến nhanh đến mức mục tiêu 4% của Chính phủ; giảm triển vọng tái đầu tư của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài; chế ngự niềm tin nhà đầu tư và dòng vốn FDI; cản trở các bước cổ phần hóa công ty nhà nước khi biến động VND ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán.
Những khía cạnh tác động đó đã được tiên liệu trước, công đoạn và mức độ FED tăng lãi suất cũng đã được báo trước. Việc còn lại là ứng xử của chính sách bán hàng vĩ mô của Việt Nam, để mềm hóa, cắt giảm những tác động bất lợi trong khả năng có thể, qua đó chủ động tạo “ngày cũ của mai sau” do đề bài đã được biết trước.
Chỉ có điều, lâu nay, tại Việt Nam thì ngược lại. Mỗi lần điều chỉnh lãi suất hoặc tỷ giá, hoặc quyết sách lớn, thị trường thường chỉ được biết sau khi đã có chọn lọc, sau đó mới đến lượt thị trường hấp thụ (có trường hợp đắn đo) và phản ánh, mà trước đây nhưng vẫn có những cú sốc. Và đây cũng là một kiểu ngày cũ chưa thấy có nhiều thay đổi cho mai sau.
Bạn đang xem chuyên mục Tai Chinh ở QOV.VN