Tránh các cú sốc cho ngành nông nghiệp Việt

Xuất khẩu thủy sản năm 2017 có tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng đều tăng trên 5%, trong bối cảnh sự cố biển miền Trung vừa được khắc phục…

Sóng của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã ở ngay đầu ngõ, trong khi, nhìn xuống dưới nước thì lo cho các loài biết bơi, nhìn lên trên bờ thì lo cho các con biết chạy. Làm thế nào để tránh được các cú sốc cho ngành nông nghiệp Việt năm 2018? Câu hỏi không dễ trả lời.

Năm 2017, công cuộc “giải cứu” lợn đã trở thành “sự kiện” bất đắc dĩ của ngành nông nghiệp. Có đại biểu Quốc hội, khi phát biểu ở nghị trường, nhắc đến cuộc giải cứu này, đã đề nghị cần bổ sung vào từ điển nông nghiệp thêm cụm từ “giải cứu”.

Theo con số thống kê chính thức từ Hội Chăn nuôi Việt Nam, mặc dù có sự vào cuộc rất tích cực của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã làm giảm đáng kể sự thua lỗ cho người chăn nuôi lợn trong nước, theo đây, con số thiệt hại đã được giảm dao động hơn 3.000 tỷ đồng mỗi tháng thời gian vừa qua.

Nhưng điều đáng nói là khủng hoảng về cung cầu phân khúc thịt lợn vừa qua đã làm mất đi phần lãi trên 100.000 tỷ đồng của người chăn nuôi lợn trong nước mà lẽ ra họ hoàn toàn được hưởng. Còn theo con số không chính thức, thì không phải chỉ là 100.000 tỷ đồng mà phải là gấp đôi. Thực sự là 1 sự kiện buồn.

Một sự kiện nữa của ngành nông nghiệp năm 2017, là 1 sự kiện đúng nghĩa “vui”. Nhưng lắng sâu trong đây, vẫn có dư vị của “rằng hay thì thật là hay nhưng xem ra vẫn đắng cay thế nào”. Đó là về các con bơi dưới nước, thủy sản tăng trưởng cao nhất trong vòng 3 năm qua.

Xuất khẩu thủy sản là điểm sáng trong năm 2017 có tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng đều tăng trên 5%, trong bối cảnh sự cố biển miền Trung vừa được khắc phục, thì thực sự đây là con số ấn tượng.

Nhưng điều đáng lưu ý, xuất khẩu thủy sản tăng, nhờ giá cả tăng khá bởi nhu cầu tăng mạnh từ phân khúc Trung Quốc. Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc 11 tháng đã vượt 1 tỷ USD, tăng 63% so có cộng kỳ, là tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong các phân khúc xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Như vậy, trong khi con biết chạy ở trên bờ rớt giá thảm vì phân khúc Trung Quốc thì con biết bơi ở dưới nước đạt được đỉnh cao cũng vì phân khúc Trung Quốc. Một lần nữa, trong rất nhiều lần vấn đề này đã được đặt ra và đặt ra ròng rã trong nhiều năm qua, là ứng xử thế nào có phân khúc Trung Quốc để tránh cho nền nông nghiệp Việt khỏi các cú sốc “giải cứu”?

Phải khẳng định rằng, dù có nhiều khi thấy đắng cay vì các cú sốc mà phân khúc này có lại, thì thích nghi để phát huy lợi thế xuất khẩu bền vững vào phân khúc Trung Quốc là con các con phố nhất định cần đi. Chỉ tính riêng phân khúc chăn nuôi và thủy sản, qua hai ví dụ trên của năm 2017, có thể thấy, chính phân khúc láng giềng Trung Quốc là tiềm năng rất lớn cho chăn nuôi và thủy sản nước ta.

Do vậy, ngoài việc phải nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm và hạ chi phí sản xuất của nông sản thích hợp có đề nghị của phân khúc này, thì vấn đề kiểm soát, hạn chế tối đa việc tạm nhập tái xuất đối có mặt hàng thực phẩm đông lạnh của các nước trên địa cầu qua Việt Nam đưa vào Trung Quốc là vô cộng quan trọng.

Hiện nay khối lượng mặt hàng tạm nhập vào Việt Nam tái xuất sang Trung Quốc là rất lớn, dao động trên 5 triệu tấn/năm (tương đương trọn vẹn sản lượng thịt các loại của cả ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra, như năm 2016 sản lượng thịt hơi các loại của nước ta sản xuất ra là 5,3 triệu tấn).

Qua phản ánh của các công ty và các người dân chuyên buôn bán nông sản ở các tỉnh vùng biên giữa hai nước Việt – Trung, trong đây có cả phản ánh của phía nước khách hàng là mặt hàng thực phẩm đông lạnh tạm nhập tái xuất tăng thêm bao nhiêu thì nông sản Việt Nam càng khó sang Trung Quốc bấy nhiêu, nhất là các mặt hàng xuất khẩu tiểu ngạch, trong đây đặc trưng là có mặt hàng lợn thịt.

Bạn đang xem chuyên mục Chung Khoan ở QOV.VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339