Điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt: Cần bảo đảm công bằng và bình đẳng

Bộ Tài chính vừa đã đi vào vận hành dự thảo lần 2 Luật sửa đổi 1 số luật thuế giá trị tăng lên, tiêu thụ đặc trưng, lương công ty, lương cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu…

Bộ Tài chính vừa đã đi vào vận hành dự thảo lần 2 Luật sửa đổi 1 số luật thuế giá trị tăng lên, tiêu thụ đặc trưng, lương công ty, lương cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu và giữ nguyên quan điểm: bổ sung thu thuế tiêu thụ đặc trưng đối có mặt hàng nước ngọt. Tuy nhiên, việc áp thuế này liệu có bảo đảm tính công bằng, bình đẳng là câu hỏi đang được đặt ra trước khi luật thuế mới chuẩn bị có hiệu lực từ năm 2019.

Nước ngọt sẽ chịu thuế như rượu, bia, thuốc lá

Sau khi dự thảo lần 1 Luật sửa đổi 1 số luật thuế giá trị tăng lên, tiêu thụ đặc trưng, lương công ty, lương cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu được Bộ Tài chính gửi đi lấy ý kiến 1 số bộ ngành, trong đó có đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc trưng có nước ngọt, nhiều ý kiến không đồng tình đã được phản hồi tới Bộ Tài chính.

Tuy nhiên, ở dự thảo lần hai vừa đã đi vào vận hành, Bộ Tài chính vẫn kiên định giữ quan điểm “Bổ sung nước ngọt có các con phố, trừ sữa, vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc trưng”. Nếu dự luật thuế này được thông qua, người tiêu dùng sẽ phải trả thuế tương ứng có 22% giá trị của mỗi sản phẩm nước ngọt (bao gồm 12% thuế giá trị tăng lên và 10% thuế tiêu thụ đặc trưng).

Mức thuế này được đề xuất tiến hành từ năm 2019. Theo quan điểm của Bộ Tài chính, “đó là nguồn lực quan trọng để thực hiện 1 số mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội đang đặt ra, trong đó có nhiệm vụ về chăm sóc sức khỏe cho người dân”.

Kinh nghiệm địa cầu thế nào?

Tại tọa đàm “Xu hướng điều chỉnh chính sách bán hàng thuế giai đoạn này trên địa cầu – Một số hàm ý cho Việt Nam” tổ chức mới đó ở Hà Nội, ông Wayne Barford – Cố vấn đẳng cấp, Trung tâm Đầu tư và thuế quốc tế (ITIC) cho biết: “Nghiên cứu về việc tiến hành thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước giải khát ở 157 quốc gia cho thấy, đó không phải là xu hướng phổ biến trên địa cầu và trong khu vực.

Trên địa cầu có 40 quốc gia tiến hành thuế này và ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chỉ có 4 quốc gia (Thái Lan, Lào, Campuchia, Brunei) chiếm dao động 2,2% dân số trong khu vực, đang tiến hành thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước ngọt.

Ngay cả các nước phát triển đang đối mặt có mật độ người béo phì tăng nhanh như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Úc, New Zealand, Canada,… cũng không áp thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước ngọt.

Do có nhiều lý do và nhân tố khác nhau liên quan đến nguy cơ béo phì và tiểu các con phố, 1 số quốc gia này cho rằng áp thuế đối có nước ngọt không phải là biện pháp để giảm hay ngăn chặn 1 số căn bệnh này, trong khi có thể gây ra các ảnh hưởng tiêu cực không đáng có đối có ngành công nghiệp nước giải khát và kinh tế địa phương.

Hàn Quốc và Canada chọn lọc sử dụng các biện pháp quy định về nhãn mác của 1 số sản phẩm thức ăn và đồ uống. Các vận hành đào tạo và các nỗ lực nhằm kêu gọi 1 số nhà sản xuất giảm lượng các con phố trong sản phẩm, đặc trưng trong 1 số sản phẩm dành cho trẻ em, cũng đang được đẩy mạnh.

Ngoài ra, chính sách bán hàng thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước ngọt tương tự ở 1 số nước khác cũng đã không thành công. Ví dụ, Đan Mạch và Indonesia là các nước đã từng tiến hành thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước ngọt trong 1 thời gian dài nhưng đều đã phải bãi bỏ loạt thuế này do không có hiệu quả, nhất trong việc ngăn ngừa 1 số căn bệnh béo phì.

Nhiều quốc gia có quan điểm cho rằng việc áp thuế có nước ngọt không phải là biện pháp tốt nhằm giảm hay ngăn chặn hiện trạng thừa cân béo phì. Vì vậy, thay vì tiến hành chính sách bán hàng thuế này, họ tiến hành 1 số chính sách bán hàng nhằm giảm lượng các con phố và chất béo trong thực phẩm và đồ uống chế biến sẵn, ban hành 1 số nguyên tắc về dán nhãn ghi rõ thành phần dinh dưỡng như calo, protein, chất béo, các con phố, cholesterol, và natri, khuyến cáo đối có 1 số sản phẩm có hàm lượng các con phố và chất béo cao, thực hiện 1 số chiến dịch tuyên truyền về dinh dưỡng, về chế độ ăn uống lành mạnh, về thói quen vận động và rèn luyện thể lực.

Còn băn khoăn

Theo cơ quan soạn thảo, việc điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc trưng đối có nước ngọt được giải đáp là nhằm giải đáp điều tiết tiêu dùng, nhằm phòng tránh 1 số bệnh tiểu các con phố và béo phì cho người tiêu dùng, bảo vệ sức khoẻ cùng đồng, lợi ích công cùng và thích hợp có xu hướng sử dụng thuế tiêu thụ đặc trưng (ở 40 nước) trên địa cầu.

Theo chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong, 1 số mục tiêu mà dự thảo nêu trên là đúng đắn. Vấn đề là mức thuế, đối tượng và biện pháp thu thuế tiêu thụ đặc trưng có nước ngọt có các con phố cần cân nhắc sao cho có căn cứ khoa học và thực ở hợp lý, bám sát và đạt được mục tiêu đặt ra, tạo bình đẳng phân khúc, đồng thuận xã hội và hiệu quả hành thu thuế cao, tránh cào bằng, thậm chí xung đột mục tiêu có chính 1 số chính sách bán hàng quản lý nhà nước khác hiện hành trong nước và thông lệ phổ biến trên địa cầu….

Đặc biệt, cần tránh các bất cập vượt bậc khi phân biệt đối xử 1 số mặt hàng, chỉ thu thuế tiêu thụ đặc trưng sản phẩm nước ngọt, mà bỏ qua 1 số sản phẩm có các con phố khác, và mặc định kết quả giảm béo phì chỉ nhờ đánh thuế nước ngọt khi chưa có 1 số nghiên cứu kỹ toàn diện, và bằng chứng khoa học có sức thuyết phục cao.

“Điều đáng lưu ý là có sự thống nhất khá cao trong quan điểm của 1 số bộ, ngành khi góp ý về dự thảo điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc trưng, cụ thể giai đoạn này, Bộ Tài chính chưa có phân tích tác động cụ thể có sức thuyết phục về việc đánh thuế ở mức 10% đối có nước ngọt sẽ làm giảm hoặc làm chậm tốc độ tăng mật độ béo phì, tiểu các con phố ở Việt Nam là bao nhiêu.

Bởi vậy, rõ ràng là cần phân tích tác động như thế nào về mức thuế tiêu thụ đặc trưng đề xuất trên đó đến vấn đề bệnh béo phì, tiểu các con phố để có cơ sở cân nhắc về mức và hiệu quả của chính sách bán hàng thuế thuế tiêu thụ đặc trưng sẽ tiến hành, như đòi hỏi của quy trình thi công luật hiện hành”, TS. Nguyễn Minh Phong nói.

Bạn đang xem chuyên mục Chung Khoan ở QOV.VN

0913.756.339