Phó chủ tịch Quốc hội: Sau Đại hội 12, diễn biến nợ công ngày càng tích cực

“Chúng ta đã có sự 1 vàih tân rất cơ bản về biện pháp, biện pháp quản lý nợ công”…

“Đến thời điểm này, có thể nói nợ công của chúng ta nằm trong giới hạn an toàn và càng ngày càng tích cực. Chúng ta đã có sự 1 vàih tân rất cơ bản về biện pháp, biện pháp quản lý nợ công. Từ sau Đại hội 12 của Đảng, tình hình đã 1 vàih tân hẳn”, Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nói.

Thay đổi cơ bản

Sau 10 năm “vượt rào”, lần Thứ nhất năm 2017, bội chi trong giới hạn cho phép và bắt đầu thấy tương lai sáng hơn cho nợ công. Theo ông, đã có thể yên tâm về sự an toàn của “túi tiền” quốc gia?

Có thể khẳng định đến thời điểm này, nợ công của chúng ta nằm trong giới hạn an toàn và càng ngày càng tích cực.

Trước đấy, áp lực nợ công của chúng ta rất cao, có 1 vài khi nợ công, nợ trực tiếp phải trả hàng năm vượt qua giới hạn cho phép, lên mức 26,2% so có số thu ngân sách (theo quy định giới hạn không quá 25%).

Có được kết quả này trước hết do có sự 1 vàih tân rất cơ bản về biện pháp, biện pháp quản lý nợ công.

Trước đấy, chúng ta chưa bao giờ có kế hoạch tài chính trung hạn, gần như năm nào biết năm đây. Nhưng sau Đại hội 12 của Đảng, tình hình đã 1 vàih tân hẳn.

Trên cơ sở Nghị quyết của Trung ương, bắt đầu có tầm nhìn dài hạn có lĩnh vực tài chính, ngân sách, có đề nghị tối thiểu phải có kế hoạch tài chính 3 năm, 5 năm. Tức là cộng có kế hoạch hàng năm, chúng ta bắt đầu có cái nhìn trung hạn.

Chính phủ cũng đã thực hiện rất tốt nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại trọn vẹn nợ công. Từ chỗ mật độ nợ ngắn hạn, lãi suất cao, không được ưu đãi dồn ép, thì bây giờ đảo lại và chuyển thành chiếm tỷ trọng lớn là nợ trung và dài hạn.

Một điểm cần được phân tích rất cao, đây là vừa qua, lẽ ra chúng ta phải phát hành trái phiếu quốc tế nhưng đã không phải phát hành mà tự giải quyết được thông qua cơ cấu 1 vài khoản nợ vay. Đây là kết quả rất đáng mừng.

Năm 2018 được xác định là năm đỉnh của nợ công. Chúng ta đã sẵn sàng cho điều này chưa, thưa ông?

Đây là điều đã nhìn thấy và được tính trong kế hoạch tài chính trung hạn, nhất là vấn đề vay ODA.

Quốc hội cũng đã quyết tâm thực hiện sửa Luật Quản lý nợ công theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, thống nhất đầu mối quản lý nợ công về 1 cơ quan là Bộ Tài chính trong điều phối ký kết việc vay nợ, còn 1 vài cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp và do Chính phủ phân công, khắc phục hiện trạng “1 nhà 3 cửa vay”.

Đây là chọn lọc rất cương quyết của Quốc hội và đảm bảo sẽ góp phần khiến cho câu chuyện quản lý nợ công tốt hơn trong tương lai.

Thu đúng, thu đủ

Có thể giảm nỗi lo nợ công, nhưng tại sao thời gian qua liên tục đưa ra bàn thảo 1 vài chính sách bán hàng thuế, khiến có không ít ý kiến trong dư luận cho rằng, vì sợ “thủng túi” nên Chính phủ càng ngày càng tìm 1 vàih tận thu?

Nếu nói Chính phủ càng ngày càng tìm 1 vàih tận thu là không đúng. Có thời kỳ chúng ta huy động đến 27 – 28% GDP, nhưng bây giờ cả năm huy động về thuế, phí chỉ có 19,2%. Rõ ràng là giảm rất sâu.

Khi bàn về chính sách bán hàng thuế, thì cần phải nhận diện đúng rằng, không phải Chính phủ tìm 1 vàih tận thu, mà là Chính phủ bàn để cơ cấu, xác định lại được cái lõi nội khu của từng sắc thuế.

Thuế của chúng ta bắt đầu bộc lộ nhiều hạn chế, mất dần tính trung lập, sự cân đối giữa hai loại thuế trực thu và gián thu đã có sự bất hợp lý; lõi nội khu của cơ cấu có 1 vài cái cần tăng thì không tăng, có 1 vài cái cần giảm thì không giảm.

Vì vậy, cần sắp xếp lại 1 vài loại thuế để thu tốt hơn. Thuế thu đúng sẽ kích thích kinh tế phát triển, còn ngược nó sẽ cản trở sự phát triển. Cho nên phải thu đúng.

Thuế thu đúng không chỉ kích thích kinh tế phát triển mà còn giúp tăng thu đáng kể ngân sách, thưa ông?

Đúng là bởi thế. Tất nhiên chúng ta không lấy chuyện gánh nặng thuế để giải quyết việc phát triển kinh tế mà lấy tăng thu từ diện tích của nền kinh tế làm chính.

Song trong bối cảnh vô vàn nguồn thu giảm, như thu từ thuế nhập khẩu sẽ phải thực hiện theo 1 vài cam đoan của hiệp định trong WTO và 12 hiệp định thương mại tự do (FTA), nên phải giảm rất nhanh, thu từ dầu thô cũng như 1 vài khoản thu từ tài nguyên cũng bắt đầu giảm nhanh, thì 1 vài chính sách bán hàng về thuế càng phải được tính toán lại để thu đúng, thu đủ.

Như có thuế giá trị tăng thêm, thực tại trong nền kinh tế của chúng ta, 1 phần không nhỏ 1 vài làm việc chuyển nhượng không có hóa đơn, thì làm sao kiểm soát được.

Chưa kể hóa đơn còn không phản ánh đúng giá trị chuyển nhượng, ví dụ mua nhà mất 30 tỷ đồng, nhưng chỉ khai hóa đơn 14 tỷ đồng, thì rõ ràng là Nhà nước thất thu.

Tại sao người dân 1 vài nước chỉ chi tiêu nhỏ như uống 1 tách cà phê, hay chi tiêu lớn như mua ôtô cũng phải lấy hóa đơn và lưu lại để chứng minh có cơ quan thuế khi cần thiết. Nếu chúng ta làm tốt 1 vài việc này sẽ tăng thu rất nhanh.

Mặt khác, chúng ta cần đề xuất thêm 1 số khoản thuế khác có thể điều chỉnh, như thuế tài sản. Vì đấy là loại thuế không đánh vào toàn bộ 1 vài loại tài sản của người dân, mà chủ yếu là đánh vào nhà và đất.

Việc điều chỉnh thuế này không đánh vào cuộc sống của 1 vài người dân lẽ thường, mà tập trung vào 1 vài người có nhiều nhà, đặc thù là 1 vài nhà không đưa vào kinh doanh mà để đầu cơ.

Tiếp đến, cũng cần đánh thuế mạnh có đất đai không sử dụng, để hoang hóa.

Ngoài ra, theo tôi dứt khoát phải đánh mạnh thuế vào việc sử dụng tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo.

Bạn đang xem chuyên mục Tai Chinh ở QOV.VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339