Không nên tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá

Vấn đề cần đặt ra là hiệu quả sử dụng vốn bởi khi các công ty được vay nhiều thì phải trả lãi và nợ gốc nhiều hơn…

“Nếu như trong những năm tới tăng trưởng tín dụng của Việt Nam nhưng vẫn đạt tốc độ 15,6%/năm trong những khi GDP danh nghĩa chỉ tăng 10,2%/năm như GĐ vừa qua thì dao động 10 năm nữa mật độ tín dụng/GDP sẽ đạt mức 200% và thuộc hàng cao nhất địa cầu…”, ông Nguyễn Đức Độ, giảng viên Học viện Tài chính, lưu ý.

Khi nói về tăng trưởng tín dụng, ông Nguyễn Đức Độ cho rằng, Chính phủ không nên tăng trưởng bằng mọi giá. Ông dẫn chứng, số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tín dụng cho khu vực tư nhân năm 2017 tại Việt Nam đạt 130% GDP. Còn Ngân hàng Nhà nước đưa ra con số, tính đến cuối năm 2017, tăng trưởng tín dụng đạt 18,17%; tăng trưởng huy động là 14,5%.

Như vậy, mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn huy động nhưng thanh khoản của hệ thống bank nhưng vẫn được chắc chắn nhờ việc Ngân hàng Nhà nước mua 7,5 tỷ USD trong cả năm 2017, trong những khi chỉ hút vào gần 31.000 tỷ đồng qua kênh tín phiếu.

Theo lý thuyết, mật độ tín dụng cao đồng nghĩa với việc nền kinh tế có thêm vốn kinh doanh. Tuy nhiên, phải đặt ra vấn đề hiệu quả sử dụng vốn, các công ty được vay nhiều thì phải trả lãi và nợ gốc nhiều hơn.

Hơn nữa, khi mật độ tín dụng trên GDP cao thì sự ổn định của hệ thống tài chính nói riêng và của nền kinh tế nhìn chung sẽ cách tân và phát triển thành nhạy cảm hơn với những biến động về lãi suất. Một sự tăng thêm nhỏ của lãi suất có thể khiến nghĩa vụ trả lãi tăng thêm đáng kể và tính bền vững của nền kinh tế bị suy giảm….

Thêm vào đó, mật độ tín dụng trên GDP cao không phải khi nào cũng đồng nghĩa với việc khu vực sản xuất được cấp vốn nhiều hơn, mà có thể thể hiện ở việc dòng vốn chảy vào các thị trường tài sản như chứng khoán, BĐS bởi thế dễ dẫn tới bong bóng giá tài sản.

“Việt Nam không nên tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá. Sau nhiều năm tăng trưởng cao, mật độ tín dụng trên GDP tại Việt Nam giai đoạn này đã gần đạt ngưỡng các nước cách tân và phát triển OECD. Nếu mật độ này tiếp tục tăng thêm thì những rủi ro liên quan đến lãi suất, nợ xấu, bong bóng tài sản sẽ càng ngày càng cao. Do đó, Chính phủ cần điều chỉnh về tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời gian tới. Nếu Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm ở mức 6,5-7% và lạm phát dưới 4% thì mức tăng trưởng tín dụng nên tương đồng với mức tăng trưởng GDP danh nghĩa vào dao động 10 – 11%/năm sẽ có tính bền vững hơn cả GĐ tới. Ngoài ra cũng cần quyên tâm hơn nữa đến các kênh huy động vốn không làm tăng thêm nợ như kiều hối, FDI cũng như thông qua thị trường cổ phiếu…”, ông Nguyễn Đức Độ nhấn mạnh.

Bà Lưu Ánh Nguyệt, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính – Bộ Tài chính cho rằng, một trong những nguồn gốc đẩy mật độ tín dụng lên cao là do chính sách bán hàng giảm lãi suất nhằm hỗ trợ cách tân và phát triển kinh tế Việt Nam thực hiện thời gian qua. Tuy nhiên, theo phân tích thì chính sách bán hàng giảm lãi suất không đem lại hiệu quả như chờ mong. Nguyên nhân là do hệ thống bank thương mại chưa lành mạnh, quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế. Hệ thống bank chưa đủ sâu, rộng để thúc đẩy nguồn vốn tới khu vực tư nhân, đặc trưng là đến với các công ty nhỏ và vừa…

“Nguồn cung tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nhưng các nhân tố chọn lọc của nó không được tìm hiểu đầy đủ. Thực tế thời gian qua cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không có ý định tăng thị phần trong hoạt động cho vay mà tập trung thúc đẩy phong phú hoá bank thành các lĩnh vực độc đáo và thành lập chi nhánh ở những thị trường mới để cung cấp các dịch vụ hiện đại…”, bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Đại học Lạc Hồng (Đồng Nai), nhấn mạnh.

Cũng theo bà Diệp, mặc dù thời gian qua các bank thương mại liên tục mở rộng dịch vụ nhưng các dịch vụ nhưng vẫn chưa đầy đủ; các dịch vụ phi tín dụng như thanh toán, đầu tư, giao dịch ngoại hối, giải đáp tài chính không được cách tân và phát triển, các sản phẩm bank tiên tiến chỉ trong GĐ thí điểm…

Còn bà Hồ Thị Ngọc Tuyền, giảng viên Đại học Ngân hàng Tp.HCM cho rằng, cơ cấu tín dụng giai đoạn này đang dịch chuyển theo hướng nâng cao chất lượng và an ninh. Con số 80% dư nợ ở các công ty và khu vực sản xuất cho thấy điều đó.

Mặt khác, tín dụng dành cho các ngành có rủi ro cao như BĐS và thị trường chứng khoán đang được kiểm soát. Hiện các công ty có thể phát hành các công cụ dài hạn như trái phiếu để huy động vốn bởi thế ít tùy thuộc vào bank trong trung và dài hạn… Song, để chắc chắn cách tân và phát triển tín dụng an ninh cho nền kinh tế, theo bà Nguyễn Thuỳ Linh, Học viện Tài chính, cần phải có chế tài mạnh trong việc xử lý nợ xấu.

Gần đây Ngân hàng Nhà nước đã có động thái là không cho bank thương mại trả cổ tức nếu không trích đủ dự phòng rủi ro, nhưng cách thức này chưa đủ mạnh, mà cần có quy định trong vòng bao nhiều năm nếu bank thương mại không giảm được mật độ nợ xấu thì không được mở rộng hoạt động. Ngoài ra có thể đề nghị trích lập dự phòng lên đến 100% vì thực tại có những quốc gia đề nghị trích lập dự phòng lên đến 150%, thậm chí là 250%.

Bạn đang xem chuyên mục Tai Chinh ở QOV.VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339