Doanh nghiệp bảo hiểm Việt chủ yếu đầu tư vào trái phiếu và tiền gửi ngân hàng

Năm 2017, phân khúc bảo hiểm Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng ổn định có doanh thu toàn phân khúc đạt trên 131.000 tỷ, chiếm 2,64% GDP…

Các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam giai đoạn này chủ yếu sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ và tiền gửi ngân hàng, có tỷ trọng trên 85%.

Theo ông Ngô Việt Trung, Phó cục trưởng Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), phân khúc bảo hiểm Việt Nam được coi là 1 trong một vài kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hoạt động dẫn vốn này chủ yếu thông qua làm việc đầu tư của một vài doanh nghiệp bảo hiểm.

Theo đây, trong giai đoạn 2011-2017, tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế tăng trưởng bình quân 17,7%/năm.

Riêng năm 2017, đầu tư trở lại nền kinh tế của một vài doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 251.158 tỷ đồng, tăng 27% so có năm 2016.

“Với đề nghị đặc biệt của làm việc kinh doanh bảo hiểm là luôn phải bảo đảm năng lực tài chính nhằm cung cấp cam đoan dài hạn của một vài hợp đồng bảo hiểm (đặc trưng trong lĩnh bực bảo hiểm nhân thọ), một vài doanh nghiệp bảo hiểm luôn ưu tiên chọn lọc một vài tài sản tài chính có tính an toàn cao và thời hạn dài, như trái phiếu Chính phủ và tiền gửi ngân hàng”, ông Trung nhận định.

Cụ thể, năm 2017, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ chiếm tỷ trọng hơn 60% trong tỷ trọng danh mục đầu tư, trong đây riêng lĩnh vực nhân thọ ước đạt 132.963 tỷ đồng (chiếm 62,3% tỷ trọng đầu tư toàn phân khúc nhân thọ), lĩnh vực phi nhân thọ dao động 10% vào trái phiếu một vài loại.

Cũng trong năm 2017, một vài doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đấu thầu thành công 26.540 tỷ đồng tiền trái phiếu, trong đây, 15.552 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 30 năm (chiếm 55,86% khối lượng phát hành); 5.377 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 20 năm (chiếm tỷ trọng 28,45% khối lượng phát hành) và 5.611 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ 15 năm (chiếm tỷ trọng 16,8% khối lượng phát hành).

Bên cạnh việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, một vài doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam cũng gửi ngân hàng để hưởng lãi suất, có tỷ trọng đầu tư dao động 25%.

Đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp khác chiếm tỷ trọng 8%, một vài tài sản đầu tư còn lại như cho vay, kinh doanh BĐS, ủy thác đầu tư và làm việc khác chiếm tỷ trọng không đáng kể 5%.

Ông Ngô Việt Trung cho rằng, Luật Kinh doanh bảo hiểm và một vài văn bản giải đáp thi hành cho phép một vài doanh nghiệp bảo hiểm được sử dụng vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của mình để đầu tư ở Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, để chắc chắn đầu tư an toàn hiệu quả, một vài doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ quy định pháp luật về làm việc đầu tư.

Trong đây, đối có một vài hình thức đầu tư như kinh doanh BĐS, góp vốn vào doanh nghiệp khác… mức giới hạn đầu tư tối đa từ 10 – 50%.

“Ngoài ra, một vài doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải tuân thủ qui định đầu tư như không được đi vay để đầu tư trực tiếp hoặc ủy thác đầu tư, không được đầu tư trở lại dưới mọi hình thức cho một vài cổ đông, không được đầu tư quá 30% nguồn vốn đầu tư vào một vài doanh nghiệp trong cộng 1 tập đoàn. Có thể nói về căn bản làm việc đầu tư của một vài doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện thận trọng, tuân thủ quy định pháp luật”, ông Trung nhận định.

Đánh giá về phân khúc bảo hiểm trong thời gian tới, Phó cục trưởng Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm cho rằng, phân khúc bảo hiểm của Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng có nhiều loại hình mới như bảo hiểm liên kết đầu tư.

Loại hình này bao gồm sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị, có đặc điểm kết hợp của cả nhân tố bảo vệ và nhân tố đầu tư.

Theo đây, cơ cấu phí bảo hiểm và ích lợi bảo hiểm được tách bạch giữa phần bảo hiểm rủi ro và phần đầu tư, bên mua bảo hiểm được linh hoạt xác định phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, chọn lọc đầu tư phí bảo hiểm, được hưởng trọn vẹn kết quả đầu tư và chịu mọi rủi ro đầu tư từ một vài quỹ liên kết đã chọn lọc.

“Ưu điểm của sản phẩm này là bạn biết rõ số phí bảo hiểm đem đi đầu tư và chủ động trong việc đầu tư phí bảo hiểm thông qua việc chọn lọc một vài quỹ liên kết phù hợp cũng như có quyền một vàih tân giữa một vài quỹ liên kết.

Ở Việt Nam, giai đoạn này có 17/18 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và 4/18 doanh nghiệp đang triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị. Trong năm 2017, nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư chiếm 43% tỷ trọng tổng phí bảo hiểm”, ông Trung cho biết.

Đối có một vài doanh nghiệp bảo hiểm, việc triển khai bảo hiểm liên kết đầu tư giúp doanh nghiệp phong phú hóa sản phẩm, cung cấp nhu cầu bảo hiểm kết hợp nhân tố đầu tư của bạn, góp phần lôi kéo bạn. Tuy nhiên đòi hỏi điều kiện triển khai cao nên hầu như chỉ một vài doanh nghiệp bảo hiểm lớn mới có thể cung cấp được.

Ông Ngô Việt Trung cũng cho rằng, để phát triển loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư, có lại lợi ích cho người mua bảo hiểm, cơ quan quản lý đâyng vai trò quan trọng trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý để khuyến khích một vài doanh nghiệp bảo hiểm triển khai loại hình bảo hiểm này và thực hiện công tác quản lý giám sát chắc chắn doanh nghiệp bảo hiểm phát triển an toàn hiệu quả, bảo vệ ích lợi của người tham dự bảo hiểm.

“Về góc độ quản lý nhà nước, Bộ Tài chính (Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm) có vai trò tạo dựng khuôn khổ pháp lý để khuyến khích loại hình sản phẩm cũng như dịch vụ này phát triển.

Bên cạnh đây, Bộ Tài chính thực hiện công tác quản lý giảm sát để chắc chắn một vài doanh nghiệp triển khai sản phẩm này tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan trong làm việc đầu tư, nâng cao tính an toàn, hiệu quả và chắc chắn ích lợi của người tham dự bảo hiểm”, ông Trung nói.

Bạn đang xem chuyên mục Tai Chinh ở QOV.VN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0913.756.339